Tiếng Việt
Tiếng Việt, còn gọi tiếng Việt Nam[5] hay Việt ngữ, là ngôn ngữ của người Việt (người Kinh) và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam, cùng với hơn bốn triệu người Việt hải ngoại. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Mặc dù tiếng Việt có một số từ vựng vay mượn từ tiếng Hán và trước đây dùng chữ Nôm — một hệ chữ dựa trên chữ Hán — để viết nhưng tiếng Việt được coi là một trong số các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Á có số người nói nhiều nhất (nhiều hơn một số lần so với các ngôn ngữ khác cùng hệ cộng lại). Ngày nay, tiếng Việt dùng bảng chữ cái Latinh, gọi là chữ Quốc ngữ, cùng các dấu thanh để viết.
Tiếng Việt được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, tại chương I điều 5 mục 3, là ngôn ngữ quốc gia của Việt Nam [6]. Tiếng Việt bao gồm cách phát âm tiếng Việt và chữ Quốc ngữ để viết. Tuy nhiên hiện chưa có bất kỳ văn bản nào ở cấp nhà nước quy định giọng chuẩn và quốc tự của tiếng Việt [7]. Hiện nay phần lớn các văn bản trong nước được viết theo những "Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt" áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục nêu tại Quyết định của Bộ Giáo dục số 240/QĐ ngày 5 tháng 3 năm 1984 [8] do những người thụ hưởng giáo dục đó sau này ra làm việc trong mọi lĩnh vực xã hội.
Cũng cần lưu ý tránh nhầm lẫn với Việt ngữ (粵語) hay tiếng Quảng Đông, một ngôn ngữ được sử dụng ở miền nam Trung Quốc(Quảng Đông, Quảng Tây) cũng như ở Hồng Kông và Ma Cao.
Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế đặt mã ngôn ngữ hai chữ cái cho tiếng Việt là "vi" (tiêu chuẩn ISO 639-1) và đặt mã ngôn ngữ ba chữ cái cho tiếng Việt là "vie" (tiêu chuẩn ISO 639-2) [9][10][11].
Mục lục
[xem]Xếp loại
Với những cơ sở khoa học gần đây được đa số các nhà ngôn ngữ học thừa nhận, tiếng Việt có quan hệ gần gũi với tiếng Mường, và được xếp vào Ngữ chi Việt thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer trong hệ Nam Á ở khu vực Đông Nam Á hiện nay.
Những ngôn ngữ này có chung một số từ vựng căn bản. Thí dụ, từ tay trong tiếng Việt tương đương trong tiếng Mường là thay, trong tiếng Khmer là đay và trong tiếng Môn là tai.
Lịch sử
Tiếng Việt là ngôn ngữ có nguồn gốc bản địa, xuất thân từ nền văn minh nông nghiệp, tại nơi mà ngày nay là khu vực phía bắc lưu vực sông Hồng và sông Mã của Việt Nam.
Theo A. G. Haudricourt giải thích từ năm 1954, nhóm ngôn ngữ Việt-Mường ở thời kỳ khoảng đầu Công nguyên là những ngôn ngữ hay phương ngữ không thanh điệu. Về sau, qua quá trình giao thoa với Hoa ngữ và nhất là với các ngữ thuộc ngữ hệ Tai-Kadai vốn có hệ thống thanh điệu phát triển cao, hệ thống thanh điệu trong tiếng Việt xuất hiện và có diện mạo như ngày nay, theo quy luật hình thành thanh điệu. Sự xuất hiện các thanh điệu, bắt đầu khoảng thế kỷ thứ VI (thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam) với ba thanh điệu và phát triển ổn định vào khoảng thế kỷ XII (nhà Lý) với 6 thanh điệu. Sau đó một số phụ âm đầu biến đổi cho tới ngày nay. Trong quá trình biến đổi, các phụ âm cuối rụng đi làm thay đổi các kết thúc âm tiết và phụ âm đầu chuyển từ lẫn lộn vô thanh với hữu thanh sang tách biệt.
Ví dụ[12] của A.G. Haudricourt.
Đầu Công nguyên (không thanh) | Thế kỷ VI (ba thanh) | Thế kỷ XII (sáu thanh) | Ngày nay |
---|---|---|---|
pa | pa | pa | ba |
sla, hla | hla | la | la |
ba | ba | pà | bà |
la | la | là | là |
pas, pah | pà | pả | bả |
slas, hlah | hlà | lả | lả |
bas, bah | bà | pã | bã |
las, lah | là | lã | lã |
pax, paʔ | pá | pá | bá |
slax, hlaʔ | hlá | lá | lá |
bax, baʔ | bá | pạ | bạ |
lax, laʔ | lá | lạ | lạ |
Nguồn gốc bản địa
Đoạn viết này đang còn trống. Bạn có thể giúp đỡ bằngcách phát triển nó. |
Ảnh hưởng từ Trung Hoa
Tiếng Việt là ngôn ngữ dùng trong sinh hoạt giao tiếp của dân thường từ khi lập nước. Giai đoạn từ đầu công nguyên, tiếng Việt có rất nhiều âm không có trong tiếng Trung. Từ khi tiếng Trung có ảnh hưởng tới Việt Nam thông qua nhiều con đường và bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau, tiếng Việt bắt đầu có những âm được vay mượn từ tiếng Trung. Các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu và Hoàng Trọng Phiến trong cuốn sách Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt chia quá trình tiếp xúc Hán – Việt thành hai giai đoạn lớn:
- Giai đoạn từ đầu công nguyên đến đầu thời nhà Đường (đầu thế kỷ VIII), từ vựng tiếng Hán ảnh hưởng tới tiếng Việt trong giai đoạn này gọi là từ Hán cổ;
- Giai đoạn từ thời nhà Đường (thế kỷ VIII – thế kỷ X) trở về sau, từ vựng tiếng Hán ảnh hưởng tới tiếng Việt trong giai đoạn này gọi là từ Hán Việt.
Từ Hán cổ và từ Hán Việt được gọi chung là từ gốc Hán.
Một số từ ngữ Hán cổ có thể kể đến như "đầu", "gan", "ghế", "ông", "bà", "cô", "chè", "ngà", "chén", "chém", "chìm", "buồng", "buồn", "buồm", "mùi", "mùa"... Từ Hán cổ là những từ gốc Hán được du nhập vào tiếng Việt đã lâu, đã được đồng hoá rất mạnh, nên những từ này hiện nay là từ thông thường trong hoạt động xã hội đối với người Việt.
Hệ thống Hán-Việt trong tiếng Việt bằng cách đọc các chữ Hán theo ngữ âm hiện có của tiếng Việt (tương tự như người Nhật Bản áp dụng kanji đối với chữ Hán và katakana với các tiếng nước ngoài khác. Hiện nay có 1945 chữ Hán thông dụng trong tiếng Nhật, cũng có khoảng 2000 từ Hán-Hàn thông dụng). Số lượng từ vựng tiếng Việt có thêm hàng loạt các yếu tố Hán-Việt. Như là "chủ", "ở", "tâm", "minh", "đức", "thiên", "tự do"... giữ nguyên nghĩa chỉ khác cách đọc; hay thay đổi vị trí như "nhiệt náo" thành "náo nhiệt", "thích phóng" thành "phóng thích", "đảm bảo" thành "bảo đảm"...; hoặc được rút gọn như "thừa trần" thành "trần" (trong trần nhà), "lạc hoa sinh" thành "lạc" (trong củ lạc, còn gọi là đậu phộng)...; hoặc được đọc chệch đi như "tiếp thu" thành "tiếp thụ", "tháp nhập" thành "sáp nhập", "thống kế" thành "thống kê", "chúng cư" thành "chung cư", "vãn cảnh" thành "vãng cảnh", "khuyến mãi" thành "khuyến mại"...; hay đổi khác nghĩa hoàn toàn như "phương phi" trong tiếng Hán có nghĩa là "hoa cỏ thơm tho" thì trong tiếng Việt lại là "béo tốt", "bồi hồi" trong tiếng Hán nghĩa là "đi đi lại lại" sang tiếng Việt thành "bồn chồn, xúc động"...Mặt khác người Trung Quốc gọi là Thái Sơn, Hoàng Hà, cổ thụ...thì người Việt lại đọc là núi Thái Sơn, sông Hoàng Hà, cây cổ thụ (mặc dù sơn = núi, hà = sông, thụ = cây)...Do tính quy ước của ngôn ngữ mà ít nhiều các cách đọc sai khác với tiếng Hán vẫn được chấp nhận và sử dụng rộng rãi, trong khi các nhà nghiên cứu ngôn ngữ tiếng Việt hiện nay cũng như các cơ quan, các cấp quản lý, tổ chức xã hội - nghề nghiệp lẫn các nhà khoa học Việt Nam chưa tìm được tiếng nói chung trong việc chuẩn hoá cách sử dụng tên riêng và từ vựng mượn từ tiếng nước ngoài.[13]. Bên cạnh đó, cũng có những từ được cho là dùng sai và khó chấp nhận như, “quan ngại” được dùng và hiểu như “lo ngại”, “vấn nạn” được hiểu là “vấn đề nan giải”, “vô hình trung” thì viết thành “vô hình chung” hay “vô hình dung”, “việt dã” bị hiểu là “chạy dài”; “trứ tác” được dùng như “sáng tác”[14], “phong thanh” được dùng như “phong phanh", “bàng quan” được dùng như “bàng quang”, “đào ngũ” được dùng là “đảo ngũ”,"tham quan" thành "thăm quan", "xán lạn" thành "sáng lạng"…
Đặc biệt là các yếu tố Hán-Việt được sử dụng để tạo nên những từ ngữ đặc trưng chỉ có trong tiếng Việt, không có trong tiếng Hán như là các từ "sĩ diện", "phi công" (dùng 2 yếu tố Hán-Việt) hay "bao gồm", "sống động", "sinh đẻ" (một yếu tố Hán kết hợp với một yếu tố thuần Việt). Nói chung tỉ lệ vay mượn tiếng Hán trong tiếng Việt rất lớn. Theo ước lượng của các nhà nghiên cứu, từ Hán Việt chiếm khoảng trên dưới 70% vốn từ trong phong cách chính luận, khoa học (Maspéro thì cho rằng, chúng chiếm tới hơn 60% lượng từ tiếng Việt)[13][14]. Tác giả Lê Nguyễn Lưu trong cuốn sách Từ chữ Hán đến chữ Nôm thì cho rằng, về lĩnh vực chuyên môn và khoa học tỉ lệ này có thể lên đến 80%, nhưng khi nhận xét về văn ngữ trong một cuốn tiểu thuyết thì chỉ còn 12,8%, kịch nói rút xuống còn 8,9%, và ngôn ngữ nói chuyện hằng ngày còn thấp hơn nữa.[15]. Dù ở tỷ lệ nào đi nữa đại đa số những từ đó đều đã được Việt hóa cho phù hợp với nhận thức của người Việt. Tiếng Việt gọi là "thủ tướng" nhưng tiếng Hoa là "tổng lý"; tiếng Việt là "truyền hình" thì tiếng Hoa là "điện thị"; tiếng Việt là "thành phố" thì tiếng Hoa là "đô thị". Những chữ thủ tướng, truyền hình, thành phố hoàn toàn là Hán Việt nhưng người Hoa tuyệt nhiên không dùng. Do vậy tiếng Việt dù vay mượn tiếng Hán nhưng giữ được bản sắc riêng của mình trước ảnh hưởng của văn hóa Hán, trong khi lợi dụng được những thành tựu ngôn ngữ trong tiếng Hán để tự cải tiến mình.
Kể từ đầu thế kỷ thứ XI, Nho học phát triển, việc học văn tự chữ Nho được đẩy mạnh, tầng lớp trí thức được mở rộng tạo tiền đề cho một nền văn chương của người Việt bằng chữ Nho cực kỳ phát triển với cái áng văn thư nổi tiếng như Nam quốc sơn hà bên sông Như Nguyệt (sông Cầu).
Cùng thời gian này, một hệ thống chữ viết được xây dựng riêng cho người Việt theo nguyên tắc ghi âm tiết được phát triển, và đó chính là chữ Nôm. Để tiện cho việc học chữ Hánvà chữ Nôm của người Việt, Ngô Thì Nhậm (1746-1803) đã biên soạn cuốn sách Tam thiên tự giải âm (còn gọi là Tam thiên tự, Tự học toản yếu). Tam thiên tự giải âm chỉ lược dạy 3000 chữ Hán, Nôm thông thường, đáp ứng nhu cầu cần thiết, nhớ chữ, nhớ nghĩa từng chữ, mỗi câu bốn chữ. Hiệp vần cũng có điểm đặc biệt, tức là vần lưng (yêu vận, vần giữa câu). Tiếng thứ tư câu đầu hiệp với tiếng thứ hai câu dưới, rồi cứ thế mãi đến 3000 chữ, 750 câu. Ví dụ: Thiên- trời, địa - đất, cử - cất, tồn - còn, tử - con, tôn - cháu, lục - sáu, tam -ba, gia - nhà, quốc - nước, tiền - trước, hậu - sau, ngưu - trâu, mã - ngựa, cự - cựa, nha - răng, vô - chăng, hữu - có, khuyển - chó, dương - dê v.v...Trần Văn Giáp đánh giá đây tuy chỉ là quyển sách dạy học vỡ lòng về chữ Hán, như lời tác giả đã nói, nhưng thực ra cũng có thể coi nó chính là sách tự điển Hán Việt thông thường và phổ biến ở cuối thế kỷ XVIII, cùng thời với các sách Chỉ nam ngọc âm, Chỉ nam bị loại, và xuất hiện trước các sách Nhật dụng thường đàm, Thiên tự văn và Đại Nam quốc ngữ.[16] Nhờ có chữ Nôm, văn học Việt Nam đã có những bước phát triển rực rỡ nhất, đạt đỉnh cao với Truyện Kiều của Nguyễn Du (1765-1820). Tiếng Việt, được thể hiện bằng chữ Nôm ở những thời kỳ sau này về cơ bản rất gần với tiếng Việt ngày nay. Tuy hầu hết mọi người Việt đều có thể nghe và hiểu văn bản bằng chữ Nôm, chỉ những người có học chữ Nôm mới có thể đọc và viết được chữ Nôm.
Chữ Nôm được chính thức dùng trong hành chính khi vua Quang Trung lên ngôi vào năm 1789.
Ảnh hưởng từ châu Âu
Từ khi Pháp xâm lược Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ thứ XIX, tiếng Pháp dần dần thay thế vị trí của chữ Nho, trở thành ngôn ngữ chính thức trong giáo dục, hành chính và ngoại giao. Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo châu Âu, đặc biệt là hai tu sĩ người Bồ Đào Nha Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa, với mục đích dùng ký tự Latinh để biểu hiện tiếng Việt, ngày càng được phổ biến và được người Việt tiếp nhận.
Tờ Gia Định báo là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ tại Nam Kỳ vào năm 1865, đặt nền móng cho sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam độc lập sau này.
Mặt khác những khái niệm chính trị xã hội, kỹ thuật mới dẫn đến việc nhập các thuật ngữ, từ ngữ mới. Có hai xu hướng về cách thức nhập thuật ngữ là:
- Nhập từ phiên âm của ngôn ngữ phương Tây, chủ yếu là từ tiếng Pháp, và thường được sử dụng bởi tầng lớp thị dân vốn không thạo chữ Hán [17] như ghi đông, phanh, lốp, găng, pê đan, phuốc tăng (nay gọi là phuộc),...
- Nhập qua tiếng Trung như chính đảng, kinh tế, giai cấp, bán kính... Trong giới văn hoa thì các tên riêng phương tây được dùng là từ Hán-Việt như Á-Căn-Đình (Argentina), Nã-Phá-Luân (Napoleon),... hay Tòa Bạch Ốc (Nhà Trắng),... và được coi là "biểu hiện sự trang trọng".
Thời kỳ 1945 cho đến nay
Chữ Quốc ngữ là chữ ghi âm, chỉ sử dụng 27 ký tự Latin và 6 dấu thanh, đơn giản, tiện lợi và có tính khoa học cao, dễ học, dễ nhớ, thông dụng; thay thế hoàn toàn tiếng Pháp và tiếng Hán vốn khó đọc, khó nhớ, không thông dụng với người Việt.
Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, sự phát triển tiếng Việt trong chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam diễn ra có chút khác nhau, chủ yếu ở sử dụng từ Hán-Việt và phiên âm tên trong tiếng nước ngoài.
Tại miền bắc có xu hướng chuyển sang sử dụng từ thuần Việt thay thế từ Hán-Việt cùng nghĩa, còn ở miền Nam thì vẫn giữ nguyên việc sử dụng từ Hán-Việt như thời trước 1945. Ví dụ như miền Nam vẫn giữ tên "Ngân hàng Quốc gia" trong khi miền Bắc đổi thành "Ngân hàng Nhà nước" (1960), miền Nam lại gọi là "phi trường" thì miền Bắc gọi là "sân bay", miền Nam gọi là "Ngũ Giác Đài" thì miền Bắc gọi là "Lầu Năm Góc", miền Nam gọi là "Đệ nhứt thế chiến" thì miền Bắc kiên quyết gọi là "Chiến tranh thế giới thứ nhất", miền Nam gọi là "hỏa tiễn" thì miền Bắc lại gọi là "tên lửa", miền Nam vẫn gọi là "thủy quân lục chiến" còn miền Bắc lại đổi thành "lính thủy đánh bộ"... Ngược lại danh từ miền Bắc như "tham quan", "sự cố", "nhất trí", "đăng ký", "đột xuất", "vô tư" v.v. thì miền Nam dùng những chữ "thăm viếng", "trở ngại/trục trặc", "đồng lòng", "ghi tên", "bất ngờ", "thoải mái"...
Việc phiên âm tên tiếng nước ngoài thì ở miền nam vẫn theo cách trước 1945 là dùng tên theo từ Hán-Việt, như Băng đảo (Iceland), Úc Đại Lợi (Australia), Hung Gia Lợi (Hungary), Ba Tây (Brazil),... Tại miền Bắc thì chuyển sang phiên âm trực tiếp thành Ai-xơ-len, Ô-xtrây-li-a, Hung-ga-ri... và trừ ra các tên Hán-Việt của đối tượng đã quá phổ biến như "Pháp", "Đức", "Anh", "Nga",... Cá biệt (có thể là duy nhất) một tên tiếng Trung là Zhuang (người Tráng) được "phiên âm trực tiếp" theo giọng Hà Nội thành Choang trong tên "Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây"[note 1] Tại miền Nam, sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ đã đem một số từ tiếng Anh vào ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày[cần dẫn nguồn].
Sau khi Việt Nam thống nhất vào năm 1975, quan hệ Bắc - Nam được kết nối lại. Gần đây, sự phổ biến của các phương tiện truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc đã làm tiếng Việt được chuẩn hóa một phần nào. Nhiều từ thuần Việt được sử dụng phổ biến thay cho từ Hán Việt, cũng như với sự tiến triển của internet và toàn cầu hóa, ảnh hưởng của tiếng Anh ngày càng lớn trên báo chí và đội ngũ phóng viên, nhiều từ nước ngoài được đưa vào tiếng Việt thiếu chọn lọc, viết nguyên bản theo ngôn ngữ nước ngoài...
Phân bố
Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam, và cũng là ngôn ngữ phổ thông đối với các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Thêm vào đó, tiếng Việt được hơn 1 triệu người sử dụng tại Hoa Kỳ (đứng thứ 7 toàn quốc, thứ 3 tại Texas, thứ 4 tại Arkansas và Louisiana và thứ 5 tại California), cũng như trên 100.000 người tại Canada và Úc (đứng thứ 6 toàn quốc).
Theo Ethnologue, tiếng Việt còn được nhiều người sử dụng tại Anh, Ba Lan, Campuchia, Côte d'Ivoire, Đức, Hà Lan, Lào, Na Uy, Nouvelle-Calédonie, Phần Lan, Pháp, Philippines, Cộng hòa Séc, Sénégal, Thái Lan, Trung Quốc và Vanuatu. Tiếng Việt cũng còn được dùng bởi những người Việt sống tại Đài Loan, Nga...
Ngoài ra Tiếng Việt cũng được công nhận là ngôn ngữ dân tộc thiểu số tại Cộng hòa Séc vì người Việt được công nhận là dân tộc thiểu số tại Séc[18].
Tiếng địa phương
- Bài chi tiết: Phương ngữ và Phương ngữ tiếng Việt
Tiếng Việt có sự thay đổi trong giọng nói từ Bắc vào Nam, không đột ngột mà tiệm tiến dần theo từng vùng liền nhau. Trong đó, giọng Bắc (Nam Định - Thái Bình) [note 2], giọng Trung Huế và giọng Nam Sài Gòn là ba phân loại chính. Những tiếng địa phương này khác nhau ở giọng điệu và từ địa phương. Thanh ngã và thanh hỏi ở miền Bắc rõ hơn ở miền Nam và Trung. Miền Bắc sử dụng một số phụ âm (tr, ch, n, l...) khác với miền Nam và Trung. Giọng Huế khó hiểu hơn những giọng khác vì có nhiều từ địa phương. Từ điển Việt-Bồ-La (1651) của Alexandre de Rhodes lấy tiếng miền Bắc làm nền tảng, Dictionarium Anamitico Latinum (1772-1773) của Pierre Pigneaux de Béhaine lấy tiếng miền Nam làm nền tảng.[19] Theo trang thông tin của Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc[20] và học giả Laurence Thompson[21] thì cách đọc tiêu chuẩn hiện nay được dựa vào giọng Hà Nội. Tuy nhiên, chưa có quy định nào nói rằng giọng Hà Nội là chuẩn quốc gia.[22]
Giọng chuẩn | Nơi sử dụng |
---|---|
Giọng miền Bắc | Hà Nội |
Giọng miền Trung | Huế |
Giọng miền Nam | Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn) |
Giọng địa phương | Nơi thể hiện rõ nét |
Giọng Đông Bắc | Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định |
Giọng Hà Thành | Hà Nội và vùng phụ cận |
Giọng Thanh Hóa | Thanh Hóa |
Giọng Nghệ-Tĩnh | Nghệ An, Hà Tĩnh |
Giọng Bình-Trị-Thiên | Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế |
Giọng Quảng | Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi |
Giọng Nẫu | Bình Định, Phú Yên |
Giọng Nam Trung Bộ | Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng |
Giọng Đông Nam Bộ | Các tỉnh Đông Nam Bộ |
Giọng miền Tây | Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long |
Giọng dân tộc thiểu số[cần dẫn nguồn] | Các tỉnh Tây Bắc, Tây Nguyên |
Miền Bắc | Miền Trung | Miền Nam |
---|---|---|
này | ni, nì | nầy |
thế này | ri nè | vầy, như vầy |
ấy | nớ, tê | đó |
thế, thế ấy | rứa, rứa tề, rứa đó | vậy, vậy đó |
kia | tê | đó |
kìa | tề | đó |
đâu | mô | đâu |
nào | mồ | nào |
sao, thế nào | răng | sao |
tôi | tui | tui |
tao | tau | tao |
chúng tôi | bọn tui | tụi tui |
chúng tao | bọn tau | tụi tao |
mày | mi | mầy |
chúng mày | bây, bọn bây | tụi mầy |
nó | hắn | nó |
chúng nó | bọn hắn | tụi nó |
ông ấy | ông nớ | ổng |
bà ấy | bà nớ | bả |
cô ấy | dì nớ | cổ |
chị ấy | chị nớ | chỉ |
anh ấy | anh nớ | ảnh |
Ngữ âm
- Bài chi tiết: Ngữ âm tiếng Việt
Nguyên âm
Giống như nhiều ngôn ngữ khác ở Đông Nam Á, tiếng Việt khá phong phú về nguyên âm. Dưới đây là bảng các nguyên âm theo giọng Hà Nội.
Trước | Giữa | Sau | |
---|---|---|---|
Đóng | i [i] | ư [ɨ] | u [u] |
Nửa đóng | ê [e] | ơ [əː] | ô [o] |
Nửa mở | e [ɛ] | â [ə] | o [ɔ] |
Mở | ă [a] / a [aː] |
Trong bảng trên, các nguyên âm trước, giữa và nguyên âm mở là nguyên âm không tròn môi, còn lại là nguyên âm tròn môi. Ă và â là dạng ngắn của a và ơ.
Đồng thời, tiếng Việt còn có hệ thống nguyên âm đôi và nguyên âm ba.
Phụ âm
Bảng dưới đây trình bày các phụ âm trong tiếng Việt và cách viết.
Môi Chân răng Quặt lưỡi Vòm Vòm mềm Họng Mũi m [m] n [n] nh [ɲ] ng/ngh [ŋ] Tắc thường p [p] t [t] tr [ʈʂ~ʈ] ch [c~tɕ] c/k/q [k~q] họng hóa b [ɓ] đ [ɗ] bật hơi th [tʰ] kh [x~kʰ] Xát vô thanh ph [f] x [s] s [ʂ] h [h] hữu thanh v [v] d [z~j] r [ʐ~ɹ] gi [z~j] g/gh [ɣ] Tiếp cận u/o [w] l [l] y/i [j]
Một số phụ âm chỉ có một cách viết (như b, p), nhưng một số có nhiều cách viết như k, có thể được biểu diễn bằng c, k hay q. Đồng thời, các phụ âm có thay đổi tuỳ theo địa phương. Sự khác biệt về phụ âm giữa các vùng miền được trình bày kĩ hơn trong bài phương ngữ tiếng Việt.
Thanh điệu
Dấu | Chữ mẫu |
---|---|
ngang | a nghe (trợ giúp·chi tiết) |
sắc | á nghe (trợ giúp·chi tiết) |
huyền | à nghe (trợ giúp·chi tiết) |
hỏi | ả nghe (trợ giúp·chi tiết) |
ngã | ã nghe (trợ giúp·chi tiết) |
nặng | ạ nghe (trợ giúp·chi tiết) |
Tiếng Việt là một ngôn ngữ thanh điệu, mọi âm tiết của tiếng Việt luôn mang một thanh điệu nào đó. Do các thanh điệu của tiếng Việt trong chữ quốc ngữ được biểu thị bằng các dấu thanh, còn gọi là dấu, nên một số người quen gọi các thanh điệu của tiếng Việt là các "dấu". Có sự khác biệt về số lượng thanh điệu và điệu trị của thanh điệu giữa các phương ngôn của tiếng Việt, thanh điệu có tên gọi giống nhau không đồng nghĩa với việc chúng sẽ được nói giống nhau trong mọi phương ngôn của tiếng Việt. Phương ngôn tiếng Việt Bắc Bộ có sáu thanh điệu, phương ngôn tiếng Việt Trung Bộ và Nam Bộ có năm thanh điệu. Thanh điệu của tiếng Việt tiêu chuẩn được cho là gồm sáu thanh: ngang (còn gọi là thanh không dấu do chữ quốc ngữ không có dấu thanh cho thanh điệu này), sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng nhưng lại thiếu các quy định cụ thể về việc lấy cách phát âm trong phương ngôn nào của tiếng Việt làm cách phát âm tiêu chuẩn cho sáu thanh điệu này.
Các âm tiết mang vần nhập thanh, tức là các vần kết thúc bằng một trong ba phụ âm cuối /k/ (chữ quốc ngữ ghi lại bằng chữ cái "c" hoặc chữ cái nhị hợp "ch"), /t/ (chữ quốc ngữ ghi lại bằng chữ cái "t"), /p/ (chữ quốc ngữ ghi lại bằng chữ cái "p") chỉ có thể mang thanh sắc hoặc thanh nặng. Ba âm tắc trên đã làm cho các âm tiết mang vần nhập thanh chỉ có thể mang các thanh điệu có điệu trị ngắn và nhanh.
Trong thơ ca các thanh điệu được phân thành hai nhóm: thanh bằng gồm có ngang và huyền, thanh trắc gồm các thanh còn lại. Trong các thể thơ cổ như Đường luật và lục bát, sự hoà hợp thanh điệu bằng - trắc giữa các tiếng trong một câu thơ rất quan trọng.
Ngữ pháp
- Bài chi tiết: Ngữ pháp tiếng Việt
Giống như nhiều ngôn ngữ khác tại Đông Nam Á, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn lập. Các quan hệ ngữ pháp được thể hiện chủ yếu thông qua hệ thống hư từ và cách sắp xếp trật tự từ trong câu. Trật tự từ thông dụng nhất trong tiếng Việt là chủ ngữ - vị ngữ - phụ ngữ (SVO).
Vị trí các từ được sắp xếp theo thứ tự, từ mang ý chính đứng trước từ mang ý phụ phụ đứng sau bổ sung nghĩa cho từ mang ý chính, tương tự như danh từ đứng trước tính từ đứng sau bổ sung nghĩa cho danh từ.
Tiếng Việt còn có hệ thống đại từ nhân xưng phức tạp dựa trên các từ ngữ chỉ quan hệ thân thuộc, và hệ thống danh từ đơn vị.
Từ vựng
- Bài chi tiết: Từ vựng tiếng Việt
Từ vựng tiếng Việt được chia ra thành hai bộ phận lớn: từ thuần Việt và từ mượn. Ngoài ra còn có những từ hỗn chủng, là kết quả của sự kết hợp các yếu tố thuần Việt và ngoại lai.
Từ thuần Việt
- Bài chi tiết: Từ thuần Việt
Từ thuần Việt là những từ xuất hiện lâu đời trong tiếng Việt, biểu thị những sự vật, hiện tượng, khái niệm cơ bản nhất trong đời sống hàng ngày. Do có sự tiếp xúc từ rất sớm với các ngôn ngữ nhóm Tày-Thái nên nhiều từ thuần Việt và các từ tương ứng trong các tiếng này có sự giống nhau nhất định về ngữ âm và ngữ nghĩa.[23]
Trước 1960 một số từ thuần Việt được dùng để đặt tên thông tục cho người trong tầng lớp bình dân, hoặc để tránh bị ma quỷ thần thánh bắt đi. Tại miền bắc có các tên như "Rụt", "Tằm", "Cột",... nhẹ nhàng hơn thì là "Cu", "Gái",... Tại miền nam có các tên như "Đực",... Sự phát triển dân trí dẫn đến cách đặt tên thông tục giảm dần.
Từ Hán-Việt
- Bài chi tiết: Từ Hán Việt
Sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Hán bắt đầu khi nhà Hán của Trung Quốc xâm chiếm nước Việt. Quá trình tiếp xúc lâu dài đã đưa vào tiếng Việt một khối lượng từ ngữ rất lớn của tiếng Hán. Giai đoạn đầu, hiện tượng này diễn ra lẻ tẻ, rời rạc, chủ yếu thông qua đường khẩu ngữ qua sự tiếp xúc giữa người Việt và người Hán, tạo nên một lớp từ có nguồn gốc Hán cổ mà ngày nay đã hoà lẫn với các từ thuần Việt.[24] Đến đời Đường, tiếng Việt mới có sự tiếp nhận các từ ngữ Hán một cách có hệ thống qua đường sách vở. Các từ ngữ gốc Hán này chủ yếu được đọc theo ngữ âm đời Đường tuân thủ nguyên tắc ngữ âm tiếng Việt gọi là âm Hán-Việt. Khi được đưa vào tiếng Việt, bên cạnh việc bị thay đổi về mặt ngữ âm, nhiều từ Hán Việt bị thay đổi cả ngữ nghĩa.[24]
Từ Hán Việt chiếm một phần không nhỏ trong vốn từ vựng tiếng Việt. Chúng có vai trò quan trọng, hiện diện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Người Việt ở tầng lớp trung lưu trở lên đặt tên người theo từ Hán Việt như Sơn, Thủy, Phong,... phân biệt với nhóm bình dân "quê mùa" đặt tên theo tiếng thuần Việt như Núi, Nước, Gió,... Tuy nhiên, nhiều người nổi tiếng có xu hướng đặt các nghệ danh theo tên Hán Việt, thường được báo chí Việt Nam gọi là các tên kêu, các mỹ từ như Nhật Kim Anh, Lý Nhã Kỳ, Phan Đinh Tùng, Quang Lê, Ngô Kiến Huy...
Nhờ cuộc vận động giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt việc sử dụng từ Hán Việt đã có sự chọn lọc, có xu hướng thay thế bằng từ thuần Việt khi có thể. Trong bức thư gửi cho Hồ Mộ La vào năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Răng không kêu chú là chú Minh, lại kêu bằng “Minh thúc”. Tiếng ta có, thì nên dùng tiếng ta, như rứa phổ thông hơn, phải không cháu?"[25]. Hồ Chí Minh cũng đề xuất thay thế các từ "giám mã" bằng "giữ ngựa"...
Từ có nguồn gốc Ấn-Âu
- Bài chi tiết: Từ mượn và Vinish
Kể từ khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, tiếng Pháp đã có ảnh hưởng đáng kể đến tiếng Việt và các từ ngữ gốc Pháp thâm nhập khá nhiều vào tiếng Việt, chỉ sau từ Hán-Việt. Sự ảnh hưởng này là do tiếng Pháp được sử dụng trong các văn bản, giấy tờ của Nhà nước và trong giảng dạy ở nhà trường, cũng như trong các loại sách báo khác. Ảnh hưởng này kéo theo sự xuất hiện của nhiều từ gốc Pháp trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong khoa học - kĩ thuật.
Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, miền bắc Việt Nam chịu ảnh hưởng đáng kể của Liên Xô. Do đó, một số từ gốc Nga có điều kiện du nhập vào tiếng Việt, như xô viết, bôn-sê-vích, hoặc các thuật ngữ khoa học kỹ thuật. Đồng thời, cùng với sự tiếp xúc, hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, trong tiếng Việt cũng xuất hiện các từ ngữ có nguồn gốc từ tiếng Anh.
Nhìn chung, khi được đưa vào tiếng Việt, những từ này được Việt hoá về mặt âm đọc (thêm thanh điệu, thay đổi âm hoặc giảm bớt âm tiết). Do vậy, những từ đơn âm tiết (hoặc được đơn âm hoá), vay mượn qua khẩu ngữ dễ dàng thâm nhập vào tiếng Việt. Trong khi đó, những từ có hai hoặc nhiều âm tiết trở lên, được vay mượn thông qua sách vở vẫn còn dấu ấn ngoại lai.[26] Đặc biệt, nhiều từ được vay mượn nguyên dạng nên tạo không ít khó khăn trong cách phát âm.
Từ có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số
Là một nước đa sắc tộc với 54 dân tộc được công nhận, tiếng Việt phổ thông tiếp nhận một phần tiếng dân tộc thiểu số, gồm từ thông dụng và tên riêng của người hay địa vật, và các từ này có thể có vần "phi Việt". Quá trình này diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử, nhưng chưa được nghiên cứu kỹ. Dựa theo tên người đăng tài trên báo chí và tên địa phương trên các bản đồ hành chính, có thể chia ra những cách thức nhập tiếng dân tộc thiểu số như sau [27]:
- Từ tiếng hầu hết các dân tộc từ Quảng Bình trở ra, đã cư trú lâu đời cùng người Kinh và/hoặc thuộc vùng Văn hóa Đông Á, như người Mường, Tày, Nùng, Thái,... thì họ tên người thì theo từ Hán Việt như các họ "Triệu", "Đàm", "Cầm", "Đèo",..., còn địa danh thì theo ghi âm như "Nậm", "Huổi/ Khuổi", "Pắc",... Đôi khi sự giao lưu với người Kinh dẫn đến những tên hỗn hợp như Hang Bua (tên tiếng Thái là Thẩm Bua, nghĩa là Hang Sen) [28].
- Từ tiếng H'Mông thì theo ghi âm mà không theo từ Hán Việt, mặc dù tiếng H'Mông có quan hệ gần gũi với tiếng Hoa. Ví dụ như các họ Vàng (Vương, Vang), Giàng (Dương, Yang),... hay các địa danh như Lao Cai (nghĩa chữ là Chợ Cũ, từ Hán Việt là Lão Nhai 老街), Sa Pa (Sa Pả, nghĩa chữ là Bãi Cát),... Trường hợp loại trừ là họ tên vua Mèođược dùng từ Hán Việt như Vương Chí Sình nhằm thể hiện sự trang trọng.
- Từ tiếng các dân tộc ở Tây Nguyên, Nam Bộ,... thì theo ghi âm là chính, như Đăk Lăk, Krông Pắk... hoặc biến âm như Sóc Trăng, Nha Trang,...
Các chữ và vần "phi Việt" được viết theo hướng dẫn trong Quyết định 240/QĐ "Về tên riêng không phải tiếng Việt" [8], trong đó các chữ cái F, J, W, Z có thể tùy nghi sử dụng.
Từ hỗn chủng
- Bài chi tiết: Từ hỗn chủng
Từ hỗn chủng là những từ được tạo thành từ các yếu tố có nguồn gốc khác nhau, như giữa yếu tố thuần Việt và Hán Việt, giữa yếu tố thuần Việt và yếu tố Ấn-Âu. Cùng với sự phát triển của tiếng Việt, các từ hỗn chủng được tạo ra ngày càng nhiều, đóng vai trò quan trọng trong việc diễn đạt các khái niệm mới trong xã hội hiện đại.
Ví dụ:
- vôi hoá (Hán-Nôm: 𥔦化) - "vôi" là thuần Việt, "hoá" là Hán-Việt.
- ôm kế - "ôm" là từ tiếng Đức Ohm, "kế" là Hán-Việt.
- nhà băng - "nhà" là thuần Việt, "băng" là từ tiếng Pháp banque.
- game thủ - "game" là tiếng Anh, "thủ" là Hán-Việt.
Chữ viết
- Xem thêm: Chữ viết tiếng Việt
Hiện nay, tiếng Việt dùng hệ chữ viết như ký tự Latin gọi là chữ Quốc ngữ. Theo tài liệu của những nhà truyền giáo Bồ Đào Nha lúc trước, chữ Quốc ngữ phát triển từ trước thế kỷ thứ XVII rồi được chuẩn định do công của một nhà truyền giáo người Pháp tên là Alexandre de Rhodes(1591–1660). Ông là người cho in cuốn Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum năm 1651.
Sau cuộc xâm lăng của người Pháp giữa thế kỷ thứ XIX, chữ Quốc ngữ trở nên thịnh hành và hầu như tất cả các văn bản viết đều dùng nó kể từ sau thập niên 1920. Trước đó, người Việt dùng hai loại chữ viết là chữ Hán và chữ Nôm. Chữ Nôm tồn tại cho đến đầu thế kỷ XX mới mất vị trí là công cụ truyền đạt ý tưởng văn chương tiếng Việt. Ngày nay, chữ Nôm không còn thông dụng ở Việt Nam.
Thư pháp
- Bài chi tiết: Thư pháp chữ Việt
Cùng với chữ Hán, chữ Nhật và chữ Hàn, chữ viết tiếng Việt cũng được nhiều người yêu thích thư pháp nâng lên thành một nghệ thuật.
Có thể nói, thư pháp chữ Việt đầu tiên được viết là thư pháp chữ Nôm. Dần dần, cùng với việc chữ Nôm bị thay thế bởi chữ Quốc ngữ, do nhu cầu treo chữ trong nhà, người ta đã khởi xướng thư pháp chữ Quốc ngữ.
Bộ gõ chữ Việt
- Bài chi tiết: Bộ gõ tiếng Việt
Để có thể viết chữ Việt trên máy tính, cần có bộ gõ tiếng Việt là một loại phần mềm hỗ trợ soạn thảo văn bản bằng tiếng Việt trên máy tính, thường cần phải có phông ký tự chữ Quốc ngữ đã được cài đặt trong máy tính. Các bộ gõ tiếng Việt khác nhau sẽ quy định các phím bấm khác nhau cho các dấu thanh, dấu mũ và dấu móc. Có những quy ước chuẩn dấu tiếng Việt, bộ mã, cách gõ và những phần mềm khác nhau. Hiện nay, bộ mã chữ Việt theo chuẩn quốc tế Unicode là được dùng phổ biến nhất.
Chuyện bên lề
Vào cuối những năm 70, NASA sử dụng tiếng Việt và 54 ngôn ngữ khác trên khắp thế giới để liên lạc với người ngoài hành tinh, bằng cách ghi trên đĩa ghi vàng Voyager đặt trên hai con tàu Voyager 1 và Voyager 2.
Các tác phẩm phim ảnh có phụ đề bằng tiếng Việt thường được gọi tắt là Vietsub (viết tắt của Vietnamese Subtitle: phụ đề tiếng Việt).
Chỉ dẫn
- ^ Tên gọi "Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây" xuất hiện trên Báo ảnh Trung Quốc cỡ năm 1958, do biên tập viên của báo trú tại Hà Nội đã theo trào lưu "phiên âm trực tiếp" từ Zhuang nhưng lại theo giọng Hà Nội viết thành Choang, mà lẽ ra phải là Troang hay Truang. Tên này từ đó trở thành phổ biến, và cũng được giới chức Quảng Tây sử dụng khi sang làm việc với bên Việt Nam.
- ^ Giọng Bắc điển hình là giọng vùng Nam Định - Thái Bình (trừ ra chỗ nói ngọng l-n) và trước đây được coi là giọng chuẩn tiếng Việt. Giọng Hà Nội nói quá nhẹ, không phân biệt s-x, gi-d, ch-tr,... không được xem là chuẩn và đặc trưng của vùng. Tuy nhiên nhiều người nước ngoài đến học tập tại Hà Nội đã bị nhiễm giọng này và coi là giọng đặc trưng của tiếng Việt.
0 responses to “Tiếng Việt”